Đổ mồ hôi tay là một chứng bệnh thường gặp trong dân chúng. Tại Việt Nam, tuy chưa có một thống kê chính xác nhưng theo giáo sư Nguyễn Thường Xuân (BV Việt Đức), từ năm 1977-1989 bệnh viện này đã điều trị 600 bệnh nhân, phần lớn tuổi đời chỉ trên dưới 20. Tất cả đều làm việc trong những ngành nghề cần phải thao tác chính xác bằng tay: lắp ráp điện tử, vẽ kỹ thuật, giáo viên...

      Mồ hôi tay ra nhiều ảnh hưởng rất lớn đến thao tác nghề nghiệp, có nhiều người phải bỏ nghề và hầu như không có người yêu vì mặc cảm. Cũng chính vì mặc cảm nên phạm vi giao tiếp xã hội của họ bị thu hẹp, họ trở nên lầm lì ít nói, đôi lúc cộc cằn.


Nguyên nhân và phương pháp điều trị

    Theo tài liệu trong y văn và thực nghiệm, người ta thấy rằng hiện tượng tăng tiết mồ hôi là do tình trạng cường giao cảm của người bệnh. Có nhiều phương pháp để điều trị chứng đổ mồ hôi tay đã được áp dụng. Các thầy thuốc nội khoa thường chỉ định dùng các thuốc ức chế giao cảm, thuốc làm giãn mạch ngoại vi và thuốc ức chế kênh Calci như Adalate nhưng không có hiệu quả, bệnh nhân lại bị những tác dụng phụ của thuốc rất khó chịu.

Một phương pháp nữa cũng được các thầy thuốc áp dụng trong một thời gian dài cho bệnh nhân đổ mồ hôi tay là tiêm nước nóng vào hạch thần kinh giao cảm để diệt các sợi giao cảm, phương pháp này cũng cho kết quả khá tốt, nhưng nhiều khi do không kiểm soát được mức độ lan rộng của nhiệt, những cơ quan khác cạnh hạch lại bị tổn thương.

          Từ lâu các thầy thuốc ngoại khoa cũng đã đề ra phương pháp cắt hạch thần kinh giao cảm để điều trị chứng đổ mồ hôi tay, qua nghiên cứu cho thấy các hạch ngực 2 và 3 chi phối việc bài tiết mồ hôi của bàn và cánh tay, do đó chỉ cần cắt hai hạch này là đủ.

        Tuy nhiên, vào thời kỳ trước năm 1988, khi chưa có phẫu thuật qua ngả nội soi lồng ngực, việc cắt hạch thần kinh giao cảm ngực để điều trị chứng đổ mồ hôi tay phải thực hiện qua phẫu thuật mở lồng ngực rất phức tạp, thời gian mổ kéo dài trên 2 giờ, phẫu thuật lớn nhưng phần hạch cắt rất nhỏ, bệnh nhân đau nhiều sau phẫu thuật.

       Ngày nay, để điều trị chứng đổ mồ hôi tay hầu hết các nước trên thế giới và tại các cơ sở phẫu thuật lồng ngực và tim mạch ở Việt Nam đều áp dụng kỹ thuật cắt hạch thần kinh giao cảm ngực qua ngả nội soi bởi kỹ thuật này có nhiều ưu điểm so với phương pháp mổ hở kinh điển: Xâm nhập tối thiểu, giảm được các biến chứng, rút ngắn thời gian nằm viện. Ngoài ra, với sự trợ giúp của các camera, người thầy thuốc có thể quan sát rõ trên màn hình: độ phóng đại lớn, tiếp cận gần, thuận lợi cho công tác huấn luyện và đào tạo. Thêm vào đó, phẫu thuật này còn rút ngắn được thời gian mổ, các đường rạch tối thiểu, giảm nguy cơ lây nhiễm các bệnh viêm gan, AIDS do không đụng chạm. Nhất là ít đau sau mổ, đạt tiêu chuẩn thẩm mỹ.

Phẫu thuật ở đâu?

        Ngày nay, tại Hà Nội có Khoa thần kinh - BV Bạch Mai là cơ sở uy tín hàng đầu về điều trị bệnh, ngoài ra  ở TP.HCM, tại Khoa Ngoại Lồng ngực và Mạch máu BV Nhân dân Gia Định mỗi tuần có đến 2-3 trường hợp đổ mồ hôi tay nhiều (phần lớn còn rất trẻ) được phẫu thuật cắt hạch thần kinh giao cảm ngực qua ngả nội soi lồng ngực hai bên.


       Điểm khác biệt của phẫu thuật này là bệnh nhân nằm ngửa, nửa nằm nửa ngồi, bác sĩ tiếp cận khoang lồng ngực bằng hai lỗ Trocar, rất nhỏ, vết sẹo hầu như không thấy sau 2 tháng và thời gian phẫu thuật chỉ mất có 30 phút.


 
          TPCN Hòa Hãn Linh - Không còn ám ảnh mồ hôi nhiều
          Những điều cần biết về tăng tiết mồ hôi
          Mồ hôi nhiều và các phương pháp điều trị


Ai không được cắt hạch thần kinh giao cảm ngực để trị đổ mồ hôi tay?

     Trước khi mổ bệnh nhân cần được giải thích rõ khả năng đổ mồ hôi bù trừ tại những vị trí khác như nách, thân mình, mông (chiếm trên 20% số bệnh nhân được phẫu thuật). Vùng thân trên cơ thể sẽ có hiện tượng giảm tiết mồ hôi và kèm theo khô rát da tại vùng đó.
Một số biến chứng khác có thể xảy ra trong điều trị như: tràn khí màng phổi (chiếm 2,7%), tràn khí dưới da (2%), tràn máu màng phổi (90,1%), xẹp một phân thùy phổi (0,4%), đau sau mổ hay còn gọi là đau giao cảm (xảy ra trong 3 tháng đầu), đau ở vai và mặt ngoài cánh tay mà nguyên nhân của nó là tình trạng tăng tính nhạy cảm của da vùng không cắt thần kinh giao cảm.

      Phương pháp nội soi lồng ngực không nên làm với bệnh nhân dày dính màng phổi, người không chịu được gây mê với thông khí chọn lọc một bên phổi, người bị rối loạn đông máu khó kiểm soát và nhồi máu cơ tim.

TS-BS Nguyễn Hoài Nam, NLĐ